Lịch sử và khảo cổ Người_Scythia

Nguồn gốc và thời kỳ tiền sử (tới 700 TCN)

Niên biểu các kurgan Scythia tại châu Á và châu Âu (Theo hình 6 trong Alekseev A. Yu. và ctv., "Chronology of Eurasian Scythian Antiquities" Skunkha, vua của Sakā tigraxaudā ("Người Saka đội mũ nhọn đầu", một nhóm các bộ lạc Scythia). Chi tiết xem Chữ khắc Behistun.

Các học giả nói chung phân loại tiếng Scythia như là thành viên của ngữ hệ Đông Iran và người Scythia là một nhánh của các sắc tộc Iran cổ đại đã tràn vào khu vực thảo nguyên phía bắc Đại Iran từ khoảng 1000 TCN[5][6][7]

Bộ sử Historiai của Herodotus cung cấp các nguồn văn học quan trọng nhất có liên quan tới người Scythia cổ đại. Theo Sulimirski[6], Herodotus đã cung cấp một sự mô tả về cơ bản là chính xác nhưng dường như biết rất ít về phần đông của Scythia. Theo Herodotus thì người Ba Tư cổ đại gọi mọi sắc tộc Scythia là "Saca" (Herodotus.VII 64). Bộ lạc chủ chốt của họ, người Scythia hoàng gia, đã cai trị các vùng đất rộng lớn do dân tộc này chiếm cứ một cách tổng thể (Herodotus.IV 20); và họ tự gọi chính mình là người Skolotoi. Oswald Szemerényi dành trọn một thảo luận kỹ lưỡng về từ nguyên học của từ Scyth trong tác phẩm "Four old Iranian ethnic names: Scythian - Skudra - Sogdian - Saka" của mình[5]. Các từ ngữ có liên quan xuất phát từ *skuza, một từ Ấn-Âu cổ đại để chỉ người bắn cung, vì thế từ Ishkuzi trong tiếng Iran cũng có nghĩa là người bắn cung.

Người Scythia xuất hiện lần đầu tiên trong các ghi chép lịch sử là trong thế kỷ 8 TCN[5]. Nhưng Herodotus đã thông báo phiên bản này:[8]

Cũng có câu chuyện khác, hiện nay là liên quan, trong đó tôi nghiêng nhiều hơn về phía để có thể đặt niềm tin hơn so với bất kỳ câu chuyện nào khác. Nó cho rằng những người Scythia đi lang thang đã từng có thời sống ở châu Á, và từng gây chiến với người Massagetae, nhưng thất bại; vì thế họ buộc phải rời bỏ quê hương, vượt qua sông Aras, và tiến vào vùng đất Cimmeria.

Vào khoảng 770 TCN, người Scythia (do Ishpaki — Tiếng Iran cổ *Spakaaya- chỉ huy) liên minh với người Mannae tấn công Assyria. Nhóm lần đầu tiên xuất hiện trong biên niên sử Assyria dưới tên gọi Ishkuzai. Theo xác nhận ngắn gọn của câu khắc của Esarhaddon thì đế quốc Assyria đã đánh bại liên minh này. Các đề cập sau đó về người Scythia trong các văn bản Babylonia và Assyria diễn ra trong mối liên hệ tới người Medes. Các nguồn Ba Tư và Hy Lạp cổ đại đề cập tới họ trong thời kỳ trị vì của nhà Achaemenid, với các nguồn Hy Lạp cho rằng họ sinh sống trong vùng thảo nguyên nằm giữa hai con sông là DneprĐông.

Cổ đại (600 TCN tới 300)

Herodotus cung cấp miêu tả chi tiết đầu tiên về người Scythia. Ông sắp xếp người Cimmeria như là một bộ lạc bản địa khác biệt, bị người Scythia xua đuổi khỏi vùng duyên hải phía bắc Hắc Hải (Hist. 4.11-12). Herodotus cũng phát biểu (4.6) rằng người Scythia bao gồm Auchatae, Catiaroi, TraspiansParalatae hay "người Scythia Hoàng gia". Trong suốt tác phẩm của mình, Herodotus phân biệt một cách rõ nét giữa người Scythia du mục ở phía nam với người Scythia làm nông nghiệp ở phía bắc.

Các chiến binh Scythia, vẽ theo các hình vẽ trên chiếc cốc bằng electrum từ khu gò mộ kiểu kurgan Kul-Oba gần Kerch. Chiến binh bên phải đang buộc chiếc cung của mình, căng nó qua đầu gối; lưu ý tới chiếc mũ trùm đầu nhọn điển hình, áo vét dài với lông thú hay lông cừu trang điểm ở rìa, quần có trang trí, ủng ngắn trên mắt cá chân. Người Scythia dường như thường để tóc dài không buộc, những người đàn ông trưởng thành để râu. gorytos xuất hiện rõ ràng bên hông trái của chiến binh cầm giáo để đầu trần; bạn đồng hành của anh ta có chiếc khiên rất thú vị, có lẽ là một tấm da phẳng che trên một bản bằng gỗ hay liễu gai. (Viện bảo tàng Ermitaz, Sainkt Peterburg)Của cải bằng vàng bạc khai quật từ Kul-Oba, gần Kerch.

Năm 512 TCN, khi vua Ba TưDarius Đại Đế tấn công người Scythia, người ta nói ông đã xâm lược vùng đất của họ sau khi vượt qua sông Danube. Herodotos kể lại rằng người Scythia du mục đã thành công trong việc làm thất bại mưu đồ của Quân đội Ba Tư bằng cách dẫn dụ cho họ tiến sâu vào trong đất nước này mà không tham chiến. Theo Herodotos, vua Darius Đại Đế theo cách đánh này của người Scythia đã tiến xa tới tận vùng sông Volga.

Trong giai đoạn từ thế kỷ 5 tới 3 TCN người Scythia đã phồn thịnh một cách rõ ràng. Khi Herodotus viết Histories của mình trong thế kỷ 5 TCN, người Hy Lạp đã phân biệt Tiểu Scythia (ngày nay là RomâniaBulgaria) với Đại Scythia (trải dài về phía đông trong khoảng 20 ngày đi ngựa từ sông Danube, vượt qua vùng thảo nguyên ngày nay là Đông Ukraina tới vùng hạ lưu sông Đông. Sông Đông, khi đó được biết đến dưới tên gọi Tanaïs, đã từng là hành trình thương mại chính kể từ thời kỳ đó. Người Scythia dường như thu được sự giàu có cho mình nhờ sự kiểm soát của họ đối với công việc buôn bán nô lệ từ phía bắc tới Hy Lạp thông qua các hải cảng kiều dân Hy Lạp vùng Hắc HảiOlvia, Chersonesos, Bosporus CimmeriaGorgippia. Họ cũng gieo trồng ngũ cốc và chuyên chở bột mì, len và phó mát về Hy Lạp.

Strabo (khoảng 63 TCN - 24) thông báo rằng vua Ateas đã thống nhất các bộ lạc Scythia sinh sống trong khu vực từ khu vực đầm lầy Maeotae (tên gọi cũ của biển Azov) tới sông Danube dưới quyền lực của mình. Sự mở rộng về phía tây của ông đã gây xung đột với Philip II của Macedonia (trị vì từ khoảng 359 tới 336 TCN), buộc ông này phải có hành động quân sự chống lại người Scythia vào năm 339 TCN. Ateas chết trong trận chiến và đế quốc của ông tan rã. Sau thất bại này, người Celt dường như đã chiếm chỗ của người Scythia trong khu vực Balkan, trong khi ở miền nam Nga (hiện nay) là bộ lạc có quan hệ họ hàng, người Sarmatia, đã dần dần áp đảo họ.

Vào thời gian có các mô tả của Strabo (các thập niên đầu của thiên niên kỷ 1), người Scythia Krym đã tạo lập một vương quốc mới trải dài từ hạ lưu sông Dnepr tới Krym. Các vị vua SkilurusPalakus đã tiến hành chiến tranh với Mithridates Đại đế (trị vì 120–63 TCN) để giành quyền kiểm soát vùng duyên hải Krym, bao gồm ChersonesosBosporus Cimmeria. Kinh đô của họ, Neapolis Scythia, nằm ở vùng ngoại ô của Simferopol ngày nay. Sau này, người Goth đã phá hủy nó, vào khoảng giữa thế kỷ 3.

Người Saka

Bài chi tiết: Người Saka

Người châu Á, đặc biệt là người Ba Tư, biết tới người Scythia ở châu Á như là người Saka. Người Ấn-Scythia có tên gọi là "Shaka" ở Nam Á, một sự mở rộng từ tên gọi "Saka". Herodotos (VII.64) miêu tả họ như là người Scythia, được gọi bằng tên gọi khác:

Người Sacae, hay người Scyth, mặc quần, trên đầu có mũ cao cứng nhọn dần thành điểm. Họ mang theo cung của đất nước họ và dao găm; bên cạnh đó họ mang theo cả rìu chiến, hay sagaris. Đúng thực tế thì họ là người Scythia Amyrgia (phương Tây), nhưng người Ba Tư gọi họ là người Sacae, kể từ đó nó là tên gọi mà họ gọi tất cả người Scythia.
— Herodotos

Người Ấn-Scythia

Bài chi tiết: Người Ấn-Scythia
Đồng tiền bằng bạc của vua Azes II (trị vì khoảng 35-12 TCN). Biểu tượng tam bảo Phật giáo ở mé trái của mặt sau.

Trong thế kỷ 2 TCN, một nhóm các bộ lạc Scythia, được biết đến như là người Ấn-Scythia, đã di cư vào Bactria (Đại Hạ), Sogdiana (Túc Đặc) và Arachosia. Các cuộc di cư giai đoạn 175-125 TCN của các bộ lạc Quý Sương ("Nguyệt Chi"), những người ban đầu sống tại miền đông lòng chảo Tarim trước khi các bộ lạc Hung (hay "Hung Nô") xua đuổi họ, đã thay thế người Ấn-Scythia tại Trung Á. Dưới sự chỉ huy của vua Maues, họ cuối cùng đã định cư tại khu vực ngày nay là PunjabKashmir vào khoảng năm 85 TCN, nơi họ thay thế vương quốc của người Ấn-Hy Lạp, vào thời gian trị vì của Azes II (khoảng 35 - 12 TCN). Người Quý Sương lại xâm phạm lần nữa trong thế kỷ 1, nhưng sự cai quản của người Ấn-Scythia còn tồn tại trong một số khu vực ở miền trung Ấn Độ tới tận thế kỷ 5.

Mối giao tiếp Hy Lạp-Scythia vẫn còn tập trung vào các đô thị và các khu định cư người Hy Lạp ở Krym (đặc biệt là tại vương quốc Bosporus). Các thợ thủ công Hy Lạp từ các khu kiều dân phía bắc Hắc Hải đã tạo ra các đồ trang sức bằng vàng theo kiểu Scythia rất ngoạn mục (xem dưới đây), áp dụng chủ nghĩa hiện thực Hy Lạp để mô tả các chủ đề Scythia về sư tử, hươu nai có gạc và quái vật sư tử đầu chim (griffin/gryphon).

Hậu Cổ đại (300 tới 600)

Vào Hậu Cổ đại, khái niệm về sắc tộc Scythia ngày càng trở nên mơ hồ hơn, và những người ngoài cuộc có thể gán cho bất kỳ người nào sinh sống trong khu vực thảo nguyên Hắc Hải-Caspi là "người Scythia", không phụ thuộc vào ngôn ngữ của họ. Vì thế, Priscus, phái viên của Hoàng đế Đông La Mã (Byzantin) Theodosius II tới chỗ của hoàng đế Attila, đã gọi những người dân của vị hoàng đế này là "người Scythia". Trong chính thể của Attila, Edekon là vua của người Scythia.

Người Goth đã thay thế người Sarmatia vào thế kỷ 2 trong phần lớn khu vực gần biên giới La Mã, và vào đầu thời kỳ Trung cổ, cuộc di cư người Turk đã làm lu mờ phương ngữ Đông Iran và đồng hóa người Saka về mặt ngôn ngữ.